Rối loạn phổ tự kỷ ảnh hưởng đến cách bộ não hoạt động dẫn đến một loạt các khuyết tật về hành vi và xã hội, từ mức độ rất nhẹ đến nặng. Trẻ mắc hội chứng rối loạn phổ tự kỷ có vấn đề về giao tiếp và tương tác xã hội. Trẻ cũng có những hành vi, sở thích và hoạt động lặp đi lặp lại. Khoảng 1⁄3 rối loạn phổ tự kỷ ở trẻ gây thiểu năng trí tuệ.
Rối loạn phổ tự kỷ ảnh hưởng đến cách bộ não hoạt động dẫn đến một loạt các khuyết tật về hành vi và xã hội, từ mức độ rất nhẹ đến nặng. Trẻ mắc hội chứng rối loạn phổ tự kỷ có vấn đề về giao tiếp và tương tác xã hội. Trẻ cũng có những hành vi, sở thích và hoạt động lặp đi lặp lại. Khoảng 1⁄3 rối loạn phổ tự kỷ ở trẻ gây thiểu năng trí tuệ.
Các nhà khoa học hiện nay vẫn chưa biết tất cả các nguyên nhân gây ra ASD. Tuy nhiên, một số nguyên nhân đã được xác định có khả năng làm tăng nguy cơ khiến trẻ mắc ASD. Bên cạnh đó, có thể có nhiều yếu tố khác nhau khiến trẻ có nhiều khả năng bị ASD, bao gồm các yếu tố môi trường, sinh học và di truyền.
Hầu hết các nhà khoa học đồng ý rằng gen là một trong những yếu tố nguy cơ có thể làm cho một người có nhiều khả năng phát triển ASD.
Trẻ em có anh chị em bị ASD có nguy cơ mắc ASD cao hơn.
Nhiều nghiên cứu tập trung vào các gen ảnh hưởng đến sự phát triển của não và dẫn truyền thần kinh (cách các tế bào não giao tiếp), nhưng các chuyên gia cho rằng một số bệnh lý nhất định có thể liên quan đến ASD. Vẫn chưa rõ những điều kiện này có liên quan trực tiếp như thế nào đến ASD. Những người mắc một số tình trạng di truyền hoặc nhiễm sắc thể, chẳng hạn như hội chứng fragile X hoặc bệnh xơ cứng củ (tuberous sclerosis), phenylketon niệu, hội chứng rượu bào thai, hội chứng Rett, hội chứng Angelman và hội chứng Smith-Lemli-Opitz có nhiều khả năng khiến trẻ mắc tự kỷ.
ASD có thể xảy ra ở tất cả các nhóm chủng tộc, dân tộc và kinh tế xã hội khác nhau, nhưng trẻ nam có khả năng mắc tự kỷ cao gấp 4 lần so với trẻ gái. Khi dùng trong thời kỳ mang thai, các loại thuốc được kê toa như axit valproic và thalidomide có liên quan đến nguy cơ mắc ASD 15-16 cao hơn.
Có một số bằng chứng cho thấy giai đoạn nhạy cảm dễ phát triển ASD xảy ra trước, trong và ngay sau khi sinh. Trẻ em sinh ra từ cha mẹ lớn tuổi có nguy cơ mắc ASD cao hơn.
Một số cha mẹ lo lắng rằng các loại vắc-xin thông thường cho trẻ nhỏ, chẳng hạn như vắc-xin sởi - quai bị - rubella (MMR), có thể gây ra chứng tự kỷ. Nhiều nghiên cứu lớn đã không tìm thấy bất kỳ mối liên hệ nào giữa chứng tự kỷ và các loại vắc xin này. Theo Viện Y khoa, Học viện Nhi khoa Hoa Kỳ và Trung tâm Dự phòng và Kiểm soát bệnh tật Hoa Kỳ (CDC) thì hiện nay không có bằng chứng nào cho thấy vắc xin gây ra chứng tự kỷ.
Hiện nay chưa thể xác định được nguyên nhân dẫn đến ASD mà chỉ mới tìm ra các yếu tố nguy cơ có thể gây nên rối loạn phổ tự kỷ
ASD đôi khi có thể được phát hiện khi trẻ 18 tháng tuổi trở xuống
Việc chẩn đoán rối loạn phổ tự kỷ (ASD) có thể khó khăn vì không có xét nghiệm nào, như xét nghiệm máu, để chẩn đoán chứng rối loạn này. Các bác sĩ xem xét lịch sử phát triển và hành vi của trẻ để đưa ra chẩn đoán.
ASD đôi khi có thể được phát hiện khi trẻ 18 tháng tuổi trở xuống. Đến 2 tuổi, chẩn đoán ASD đến từ một chuyên gia có kinh nghiệm có thể được xem là rất đáng tin cậy. Tuy nhiên, nhiều trẻ không được chẩn đoán cuối cùng cho đến khi trẻ lớn hơn. Một số người không được chẩn đoán cho đến khi họ ở tuổi vị thành niên hoặc người lớn. Sự chậm trễ này có nghĩa là trẻ em mắc ASD có thể không nhận được sự giúp đỡ sớm mà chúng cần.
Các dấu hiệu ban đầu của ASD có thể bao gồm, nhưng không giới hạn chỉ mấy dấu hiệu này:
Khi trẻ em mắc chứng ASD trở thành thanh thiếu niên và thanh niên, trẻ có thể gặp khó khăn trong việc phát triển và duy trì tình bạn, giao tiếp với bạn bè và người lớn, hoặc hiểu những hành vi được mong đợi ở trường học hoặc trong công việc. Ngoài ra, những đối tượng này cũng cần chăm sóc sức khỏe thường xuyên vì họ có thể có kèm theo các bệnh lý khác như rối loạn tăng động giảm chú ý, rối loạn ám ảnh cưỡng chế, lo âu hoặc trầm cảm hoặc rối loạn hành vi.
Theo dõi, sàng lọc, đánh giá và chẩn đoán trẻ mắc ASD càng sớm càng tốt là điều rất quan trọng để đảm bảo trẻ nhận được các dịch vụ và hỗ trợ cần thiết để phát huy hết tiềm năng của mình. Có một số bước trong quá trình này.
Theo dõi sự phát triển bằng cách quan sát cách con bạn phát triển và thay đổi theo thời gian và liệu con bạn có đáp ứng được các mốc phát triển điển hình về chơi, học, nói, cư xử và di chuyển hay không. Cha mẹ, ông bà, nhân viên Y tế chăm sóc trẻ và những người chăm sóc khác có thể tham gia vào việc giám sát sự phát triển. Bạn có thể sử dụng một danh sách kiểm tra ngắn gọn về các mốc quan trọng để xem con bạn đang phát triển như thế nào. Nếu bạn nhận thấy rằng con bạn không đạt được các mốc quan trọng, hãy nói chuyện với bác sĩ hoặc điều dưỡng về những lo lắng của bạn.
Khi bạn đưa trẻ đi khám sức khỏe, bác sĩ hoặc điều dưỡng cũng sẽ theo dõi sự phát triển của trẻ. Bác sĩ hoặc điều dưỡng có thể hỏi bạn các câu hỏi về sự phát triển của con bạn hoặc sẽ nói chuyện và chơi với con bạn để xem liệu con bạn có đang phát triển và đạt được các mốc quan trọng hay không. Một cột mốc bị bỏ lỡ có thể là dấu hiệu của vấn đề nào đó, vì vậy bác sĩ hoặc một chuyên gia khác sẽ xem xét kỹ hơn bằng cách sử dụng nhiều bài kiểm tra kỹ lưỡng hơn.
Kiểm tra sự phát triển giúp xem xét kỹ hơn cách con bạn đang phát triển. Con bạn sẽ nhận được một bài kiểm tra ngắn hoặc bạn sẽ hoàn thành một bảng câu hỏi về con bạn. Các công cụ được sử dụng để sàng lọc hành vi và phát triển là bảng câu hỏi về sự phát triển của trẻ, bao gồm ngôn ngữ, chuyển động, suy nghĩ, hành vi và cảm xúc. Sàng lọc phát triển có thể được thực hiện bởi bác sĩ hoặc điều dưỡng, nhưng cũng có thể được thực hiện bởi các chuyên gia khác trong cơ sở chăm sóc sức khỏe, cộng đồng hoặc trường học.
Sàng lọc phát triển phổ biến hơn so với theo dõi phát triển và được thực hiện ít thường xuyên hơn theo dõi phát triển. Con bạn nên được kiểm tra nếu bạn hoặc bác sĩ nhận ra các dấu hiệu bất thường. Tuy nhiên, sàng lọc phát triển chỉ là một phần của một số lần thăm khám sức khỏe cho trẻ em và cho tất cả trẻ, ngay cả khi trẻ không có bất kỳ dấu hiệu bất thường nào liên quan đến tự kỷ.
Học viện Nhi khoa Hoa Kỳ (AAP) khuyến nghị tầm soát hành vi và phát triển cho tất cả trẻ em khi thăm khám sức khỏe định kỳ cho trẻ ở những độ tuổi sau:
Ngoài ra, AAP khuyến cáo rằng, tất cả trẻ em nên được sàng lọc đặc biệt về ASD trong các cuộc thăm khám bác sĩ tại:
Có thể cần sàng lọc bổ sung nếu trẻ có nguy cơ cao mắc ASD (ví dụ: trẻ có chị gái, anh trai hoặc thành viên khác trong gia đình mắc ASD) hoặc đôi khi có các hành vi liên quan đến ASD.
Nếu con bạn có nguy cơ mắc các vấn đề phát triển cao hơn do sinh non, nhẹ cân, rủi ro về môi trường như phơi nhiễm chì hoặc các yếu tố khác, bác sĩ cũng có thể thảo luận thêm về việc sàng lọc bổ sung. Nếu một đứa trẻ có một vấn đề sức khỏe kéo dài, thì trẻ đó cần được theo dõi và sàng lọc phát triển trong tất cả các lĩnh vực phát triển.
AAP khuyến cáo rằng, tất cả trẻ em nên được sàng lọc đặc biệt về ASD trong các cuộc thăm khám bác sĩ ở thời điểm 18 tháng và 24 tháng tuổi
Hiện tại, không có phương pháp điều trị nào được chứng minh là có thể chữa khỏi ASD, nhưng một số biện pháp can thiệp đã được phát triển và nghiên cứu để sử dụng cho trẻ nhỏ. Những can thiệp này có thể làm giảm các triệu chứng, cải thiện khả năng nhận thức và kỹ năng sống hàng ngày, và tối đa hóa khả năng hoạt động và tham gia của trẻ trong cộng đồng.
Sự khác biệt về cách ASD ảnh hưởng đến mỗi người là những người mắc ASD có những điểm mạnh và thách thức riêng trong giao tiếp xã hội, hành vi và khả năng nhận thức. Do đó, kế hoạch điều trị thường là đa ngành, có thể liên quan đến các biện pháp can thiệp do cha mẹ làm trung gian và nhắm mục tiêu các nhu cầu cá nhân của trẻ.
Các chiến lược can thiệp hành vi tập trung vào phát triển kỹ năng giao tiếp xã hội, đặc biệt khi trẻ sẽ đạt được những kỹ năng này một cách tự nhiên và giảm bớt các sở thích bị hạn chế cũng như các hành vi lặp đi lặp lại. Đối với một số trẻ em, liệu pháp nghề nghiệp và ngôn ngữ cũng như đào tạo kỹ năng xã hội và dùng thuốc ở trẻ lớn hơn có thể hữu ích. Phương pháp điều trị hoặc can thiệp tốt nhất có thể khác nhau tùy thuộc vào độ tuổi, tình trạng sức khoẻ, các vấn đề gặp phải và sự khác biệt của mỗi cá nhân.
Cũng cần nhớ rằng trẻ em bị ASD có thể bị ốm hoặc bị thương giống như trẻ em không bị ASD. Khám sức khỏe và nha khoa thường xuyên nên là một phần trong kế hoạch điều trị của trẻ. Thông thường, rất khó để biết liệu hành vi của trẻ có liên quan đến ASD hay do tình trạng sức khỏe riêng biệt gây ra. Ví dụ, cử động đầu đập về phía trước liên tục (head-banging) có thể là một triệu chứng của ASD hoặc nó có thể là dấu hiệu trẻ đang bị đau đầu hoặc đau tai. Trong những trường hợp đó, trẻ cần phải khám sức khỏe toàn diện. Theo dõi các mốc phát triển không chỉ có nghĩa là chú ý đến các triệu chứng liên quan đến ASD mà còn cả sức khỏe thể chất và tinh thần của trẻ.
Hiện tại, không có phương pháp điều trị nào được chứng minh là có thể chữa khỏi ASD, nhưng một số biện pháp can thiệp có thể giảm thiểu các triệu chứng, cải thiện khả năng nhận thức của trẻ
Có nhiều loại phương pháp điều trị hiện nay đang được thực hiện cho trẻ tự kỷ, bao gồm phân tích hành vi ứng dụng (applied behavior analysis), đào tạo kỹ năng xã hội, trị liệu nghề nghiệp, vật lý trị liệu, liệu pháp hợp nhất các giác quan (sensory integration therapy) và sử dụng công nghệ hỗ trợ.
Các loại điều trị thường có thể được chia thành các loại sau:
Trẻ trong giai đoạn từ 6 tháng đến 3 tuổi rất dễ gặp phải các vấn đề về hệ hô hấp, các bệnh lý nhiễm trùng hô hấp, bệnh lý về da và nhiễm trùng đường tiêu hóa...cha mẹ cần đặc biệt chú ý đến việc chăm sóc và cung cấp dinh dưỡng đầy đủ cho trẻ.
Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.
Nguồn tham khảo: babycenter.com
Đôi khi, cần sử dụng vật lý trị liệu và liệu pháp chuyên môn
Việc điều trị rối loạn phổ tự kỷ thường có tính chất đa ngành và nghiên cứu cho thấy những lợi ích có thể đo lường được từ các phương pháp tiếp cận chuyên sâu, dựa trên hành vi nhằm khuyến khích sự tương tác và giao tiếp có ý nghĩa. Các nhà tâm lý học và các nhà giáo dục thường tập trung phân tích hành vi, sau đó kết hợp các chiến lược quản lý hành vi với những vấn đề hành vi cụ thể ở nhà và ở trường. Xem thêm báo cáo lâm sàng năm 2020 về Xác định, Đánh giá và Quản lý Trẻ bị Rối loạn Phổ Tự kỷ của Học viện Nhi khoa Hoa Kỳ.
Phân tích hành vi ứng dụng (ABA) là một cách tiếp cận trị liệu trong đó trẻ em được dạy các kỹ năng nhận thức, xã hội hoặc hành vi cụ thể theo cách thức từng bước. Những cải tiến nhỏ được củng cố và xây dựng dần dần để cải thiện, thay đổi hoặc phát triển các hành vi cụ thể ở trẻ mắc rối loạn phổ tự kỷ. Những hành vi này bao gồm các kỹ năng xã hội, kỹ năng ngôn ngữ và giao tiếp, đọc và học tập cũng như các kỹ năng học được như chăm sóc bản thân (ví dụ: tắm rửa, chải đầu), kỹ năng sinh hoạt hàng ngày, đúng giờ và năng lực công việc. Liệu pháp này cũng được sử dụng để giúp trẻ giảm thiểu các hành vi (ví dụ: gây hấn) có thể cản trở sự tiến bộ của trẻ. Liệu pháp phân tích hành vi ứng dụng được điều chỉnh để đáp ứng nhu cầu của từng trẻ và thường được thiết kế và giám sát bởi các chuyên gia được chứng nhận về phân tích hành vi. Tại Hoa Kỳ, ABA có thể được cung cấp trong khuôn khổ của Kế hoạch giáo dục cá nhân (IEP) thông qua các trường học và ở một số tiểu bang được bảo hiểm y tế chi trả. Mô hình Phát triển, khác biệt cá nhân, dựa trên mối quan hệ (DIR®), còn được gọi là Thời gian sàn, là một cách tiếp cận dựa trên hành vi chuyên sâu khác. DIR® dựa trên sở thích và các hoạt động ưa thích của trẻ để giúp xây dựng các kỹ năng tương tác xã hội và các kỹ năng khác. Hiện tại, có ít bằng chứng ủng hộ DIR/Floortime hơn ABA, nhưng cả hai liệu pháp đều có thể hiệu quả.
Liệu pháp lời nói và ngôn ngữ nên bắt đầu sớm và sử dụng nhiều phương tiện truyền thông, bao gồm chỉ dạy, trao đổi hình ảnh và các thiết bị truyền thông như các thiết bị phát lợi nói dựa trên biểu tượng trẻ em chọn trên máy tính bảng hoặc thiết bị cầm tay khác cũng như lời nói. Các nhà trị liệu vật lý và chuyên gia trị liệu nghề nghiệp lập kế hoạch và thực hiện các chiến lược để giúp đỡ trẻ bị ảnh hưởng còn bù cho những thiếu hụt đặc biệt về chức năng vận động, vận động có chủ đích và cảm giác.
Thuốc có thể giúp làm giảm các triệu chứng. Có bằng chứng cho thấy các thuốc chống loạn thần trong trường hợp không điển hình (ví dụ: risperidone, aripiprazole) giúp làm giảm các vấn đề về hành vi, chẳng hạn như các hành vi nghi lễ, tự gây thương tổn và hung hăng. Các loại thuốc khác đôi khi được sử dụng để kiểm soát các triệu chứng cụ thể, bao gồm thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRI) cho các hành vi mang tính nghi lễ, thuốc ổn định tâm trạng (ví dụ: axit valproic) cho các hành vi tự gây thương tôn và bộc phát, cũng như các thuốc kích thích và các loại thuốc ADHD khác cho tình trạng mất tập trung, bốc đồng và tăng động.
Điều chỉnh chế độ ăn uống, bao gồm bổ sung vitamin và thức ăn không chứa gluten và không có casein, không thực sự có ích; tuy nhiên, nhiều gia đình vẫn áp dụng dẫn tới việc cần giám sá sự thiếu hoặc thừa một số chất trong chế độ ăn. Các phương pháp tiếp cận và điều trị khác (ví dụ, tạo điều kiện cho trẻ trong giao tiếp, điều trị chelat, huấn luyện hợp nhất thính giác,liệu pháp oxy) chưa thấy hiệu quả.
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Phổ tự kỷ, còn được gọi là rối loạn phổ tự kỷ (ASD), là một loạt các rối loạn tâm thần thuộc loại rối loạn thần kinh. Nó bao gồm tự kỷ và hội chứng Asperger. Các cá nhân mắc chứng này thường gặp vấn đề với giao tiếp và tương tác xã hội; và các hành vi, sở thích hoặc hoạt động hạn chế và lặp đi lặp lại. Các triệu chứng thường được nhận ra từ một đến hai tuổi.[5] Các vấn đề trong dài hạn có thể bao gồm những khó khăn trong việc thực hiện các nhiệm vụ hàng ngày, tạo và giữ mối quan hệ và duy trì công việc.[6]
Nguyên nhân của phổ tự kỷ là không chắc chắn. Các yếu tố rủi ro bao gồm có cha mẹ lớn tuổi, tiền sử gia đình mắc chứng tự kỷ và một số điều kiện di truyền nhất định. Ước tính có từ 64% đến 91% rủi ro là do tiền sử gia đình.[7] Chẩn đoán dựa trên các triệu chứng. DSM-5 xác định lại các rối loạn phổ tự kỷ để bao gồm các chẩn đoán tự kỷ trước đó, hội chứng Asperger, rối loạn phát triển lan tỏa không được chỉ định khác (PDD-NOS) và rối loạn phân rã ở trẻ em.[8]
Các nỗ lực điều trị thường được cá nhân hóa cho từng bệnh nhân, và có thể bao gồm trị liệu hành vi và giảng dạy các kỹ năng đối phó. Thuốc có thể được sử dụng để cố gắng giúp cải thiện triệu chứng. Bằng chứng là không mạnh lắm.để hỗ trợ việc sử dụng thuốc.
Phổ tự kỷ được ước tính sẽ ảnh hưởng đến khoảng 1% số người (62,2 triệu trên toàn cầu tính đến 2015).[5] Nam giới được chẩn đoán mắc bệnh này nhiều hơn nữ giới.[6] Thuật ngữ "phổ" có thể chỉ phạm vi của các triệu chứng hoặc mức độ nghiêm trọng của bệnh, điều này khiến một số người ủng hộ sự phân biệt giữa những người tự kỷ bị khuyết tật nghiêm trọng, những người không thể nói hoặc tự chăm sóc bản thân, và tự kỷ chức năng cao hơn, như Temple Grandin, người phát ngôn tự kỷ.[9]
Tỉ lệ xuất hiện của chứng rối loạn phổ tự kỷ được ghi nhận khác nhau giữa các quốc gia và các nhóm người. Theo CDC Mỹ công bố năm 2020 thì ở Mỹ cứ 54 trẻ sinh ra sẽ có một trẻ mắc chứng rối loạn phổ tự kỷ (theo dữ liệu năm 2016). Ở Châu Á, rối loạn phổ tự kỷ vẫn chưa được nghiên cứu kĩ và nhiều như ở các quần thể người Châu Âu hay Bắc Mỹ và tần suất xuất hiện tự kỷ được báo cáo có sự khác biệt lớn giữa các quần thể. Theo ước tính, tự kỷ chiếm khoảng 1% quần thể. Ở Việt Nam, hiện chưa có số liệu thống kê chính xác tỉ lệ mắc tự kỷ trong cộng đồng là bao nhiêu.
Rối loạn phổ tự kỷ (ASD - Autism Spectrum Disorder) thường được mọi người gọi là "tự kỷ", là một rối loạn bao gồm các biểu hiện lâm sàng đặc trưng với khả năng thiếu hụt về kỹ năng xã hội, các hành vi lặp lại, thiếu hụt hay thậm chí không có khả năng giao tiếp và ngôn ngữ. Ngoài các biểu hiện nêu trên, trẻ tự kỷ còn có thể có những biểu hiện lâm sàng khác như co giật, động kinh, rối loạn vị giác, âm thanh, giấc ngủ, tăng động giảm chú ý, có vấn đề về hệ tiêu hóa, thường xuyên lo lắng, bồn chồn...[1]
Bệnh tự kỷ là 1 trong 5 tiểu loại của nhóm bệnh Rối loạn phát triển lan tỏa (PDD - Pervassive Development Disorders) hay còn được gọi là nhóm bệnh Rối loạn phổ tự kỷ (ASD - Autism Spectrum Disorder). [2]
Ca bệnh tự kỷ đầu tiên được ghi nhận trên thế giới. Đó chính là Hugh Blair (1708 - 1765) - một người Scotland đến từ Borgue, Kirkcudbrightshire, người được đặt biệt danh là "chàng trai sành điệu của Borgue" do nhiều tính cách lập dị của mình.[3]
Ghi nhận trường hợp của cậu bé “hoang dã” Victor ở Aveyron, cậu bé này không có khả năng biểu đạt bằng ngôn ngữ, không có khả năng giao tiếp hoặc nhận thức. Cậu được bác sỹ Jean Marc Itard tiếp nhận và chữa trị bằng nhiều cách: tạo hứng thú xã hội, đánh thức sự nhạy cảm thần kinh, tăng cường thực hành ngôn ngữ và các thao tác trí tuệ đơn giản… Bác sỹ Itard đã mô tả những triệu chứng của hội chứng tự kỷ theo hướng y khoa, lâm sàng nhiều hơn những mô tả trước nhưng vẫn đủ để khẳng định sự tồn tại của những đứa trẻ tự kỷ trước đó. [4]
Nhà tâm lý học người Thụy Sĩ, Paul Eugen Bleuler là người đầu tiên đưa ra thuật ngữ "Tự kỷ (Autism)", sử dụng nó để mô tả những gì ông tin là "phiên bản thời thơ ấu của bệnh tâm thần phân liệt". Autism có nguồn gốc là từ Autos trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là tự thân. Bleuler dùng thuật ngữ này để chỉ giai đoạn đầu của rối loạn thần kinh ở người lớn, nhận thức của người bệnh có xu hướng không giống với các kinh nghiệm thông thường do các rối loạn tâm thần. Vào thời đó, tự kỷ được xem như một dạng của tâm thần phân liệt.
Grunya Sukhareva, một bác sĩ tâm thần nhi khoa ở Kiev - Nga đã viết về 6 đứa trẻ mắc chứng tự kỷ trên một tạp chí khoa học về thần kinh và tâm thần học của Đức. [5]
Leo Kanner - Một bác sĩ tâm thần nhi khoa tại Trường Y Johns Hopkins, Hoa Kỳ đã xuất bản một bài báo mô tả 11 bệnh nhi bị ám ảnh bởi cái mà ông mô tả là “kháng cự lại sự thay đổi không mong muốn”. Sau đó, ông đặt tên cho tình trạng này là "Infant Autism" (Tạm dịch là: chứng tự kỷ ở trẻ sơ sinh). Karner là người đầu tiên đưa ra thuật ngữ "Infant Autism" (Chứng tự kỷ ở trẻ sơ sinh/ Tự kỷ nhũ nhi). [6]
Bác sĩ nhi khoa người Áo - Hans Asperger đã công bố một nghiên cứu khoa học quan trọng về trẻ em mắc chứng tự kỷ, một nghiên cứu điển hình mô tả 4 đứa trẻ từ 6 đến 11. Ông nhận thấy cha mẹ của một số trẻ có tính cách giống nhau hoặc tính cách lập dị và đây được coi là bằng chứng về mối liên hệ giữa tự kỷ và di truyền. Ông cũng được ghi nhận là đã mô tả một dạng tự kỷ hoạt động cao hơn, sau này được gọi là hội chứng Asperger.[7]
Leo Kanner đã công bố lý thuyết do ông nghiên cứu, rằng chứng tự kỷ là do "Refrigerator Moms" (những bà mẹ tủ lạnh) - một thuật ngữ dùng để mô tả những bậc cha mẹ lạnh lùng và tách biệt.
Trong ấn bản đầu tiên của Sổ tay thống kê và chẩn đoán các rối loạn tâm thần của Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ (DSM - American Psychiatric Association), trẻ em có các triệu chứng của bệnh tự kỷ bị dán nhãn là bị tâm thần phân liệt thời thơ ấu.[8]
Leon Eisenberg đã xuất bản một bài báo về "Trẻ tự kỷ ở tuổi vị thành niên", theo dõi 63 trẻ tự kỷ trong 9 năm và theo dõi, khảo sát một lần nữa vào lúc những đứa trẻ tự kỷ 15 tuổi.[9]
Nhà khoa học người Áo - Bruno Bettelheim đã đăng một bài báo trên tạp chí Scientific American về Joey, một cậu bé 9 tuổi mắc chứng tự kỷ.
Bernard Rimland xuất bản cuốn sách "Chứng tự kỷ ở trẻ sơ sinh: Hội chứng và ý nghĩa của nó đối với lý thuyết hành vi thần kinh (Infantile Autism: The Syndrome and Its Implications for Neurobehavioral Theory)". Những thông tin trong cuốn sách của Bernard Rimland thách thức lý thuyết “những bà mẹ tủ lạnh” và thảo luận về các yếu tố thần kinh trong chứng tự kỷ.[10]
Cùng năm, Ole Ivar Lovaas bắt đầu nghiên cứu lý thuyết của ông về liệu pháp Phân tích hành vi ứng dụng (ABA - Applied Behavior Analysis) cho trẻ tự kỷ.[11]
Trường Sybil Elgar bắt đầu giảng dạy và chăm sóc trẻ em mắc chứng tự kỷ.
Một nhóm cha mẹ của trẻ tự kỷ có cuộc họp đầu tiên với Hiệp hội Quốc gia về Trẻ Tự kỷ - National Autism Association (nay được gọi là Hiệp hội Tự kỷ Hoa Kỳ - Autism Society of America).
Bruno Bettelheim đã viết cuốn sách "Empty Fortress" (Tạm dịch: Pháo đài trống), để củng cố cho lý thuyết “những bà mẹ tủ lạnh” là nguyên nhân của chứng tự kỷ.[12]
Đạo luật Giáo dục cho tất cả Trẻ em Khuyết tật (bao gồm cả trẻ tự kỷ) được ban hành ở Mỹ, để giúp bảo vệ các quyền và đáp ứng nhu cầu của trẻ em khuyết tật. Hầu hết các trẻ em bị khuyết tật ở Mỹ trước đó không được đến trường.[13]
Susan Folstein và Michael Rutter công bố nghiên cứu đầu tiên về các cặp song sinh và chứng tự kỷ. Nghiên cứu phát hiện ra rằng di truyền là một yếu tố nguy cơ quan trọng đối với bệnh tự kỷ.[14]
Ấn bản thứ ba của Cẩm nang phân loại và chẩn đoán các bệnh tâm thần (DSM-3 - Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders), lần đầu tiên nói đến các tiêu chí để chẩn đoán chứng tự kỷ ở trẻ sơ sinh.[15]
Tự kỷ được đưa vào danh mục khuyết tật trong Đạo luật Giáo dục người khuyết tật (IDEA - Disabilities Education Act) của Mỹ, giúp trẻ tự kỷ dễ dàng nhận được các dịch vụ giáo dục đặc biệt hơn.[16]
Temple Grandin đã viết cuốn sách "Rise - Autistic People Labeled" (Tạm dịch: Hãy vùng lên, những người tự kỷ bị dán nhãn), là cuốn sách tự sự về cuộc đời của cô ấy với chứng tự kỷ và cách cô ấy trở nên thành công trong lĩnh vực của mình.
Andrew Wakefield xuất bản bài báo của mình trên tạp chí Lancet cho rằng vaccine sởi-quai bị-rubella (MMR) gây ra chứng tự kỷ. Lý thuyết này đã bị chứng minh là SAI bởi các nghiên cứu dịch tễ học toàn diện.[17]
Hiệp hội Tự kỷ (the Autism Society) chính thức sử dụng "Autism Awareness Puzzle Ribbon" (Tạm dịch: Ruy băng nhận thức về tự kỷ) làm biểu tượng nhận biết tự kỷ. Ruy băng nhận thức về tự kỷ gồm các mảnh ghép puzzle nhiều màu sắc, phản ánh mức độ phức tạp của phổ tự kỷ.
Mặc dù biểu tượng này là biểu tượng của Hiệp hội Tự kỷ nhưng tổ chức này cho phép các tổ chức phi lợi nhuận khác sử dụng để thể hiện sự thống nhất và thúc đẩy sứ mệnh toàn cầu trong việc nhận thức về tự kỷ.
Bernard Rimland và Stephen Edelson viết cuốn sách "Restoring Children with Autism" (Tạm dịch: Giúp trẻ tự kỷ phục hồi)
Ari Ne'eman thành lập tổ chức ASAN - Autism Advocacy Network (Tạm dịch: Mạng lưới hoạt động vì người tự kỷ).
Dora Raymaker và Christina Nicolaidis thành lập tổ chức AASPIRE - Autism Spectrum Academic Collaboration in Research and Education (Tạm dịch: Tổ chức Học thuật trong Nghiên cứu và Giáo dục phổ tự kỷ) để cung cấp các nguồn lực cho những người lớn mắc chứng tự kỷ và cho các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe.
Tổng thống Mỹ ký Đạo luật Chống Tự kỷ (Autism Prevention Act) để cung cấp hỗ trợ cho việc nghiên cứu và điều trị chứng tự kỷ. [18]
Liên Hợp Quốc (WHO) quyết định lấy ngày 2 tháng 4 hằng năm là "Ngày thế giới nhận thức về chứng tự kỷ (World Autism Awareness Day)".
Sau một quá trình lâu dài tái bản và chỉnh sửa, DSM-5 đã đưa ra phân loại gần như là hoàn thiện nhất của cuốn cẩm nang này về Nhóm bệnh Rối loạn phát triến lan tỏa, trong đó bao gồm bệnh tự kỷ/ hội chứng tự kỷ. [19]
*Nhóm bệnh Rối loạn phát triển lan tỏa (PDD - Pervassive Development Disorders) là cái tên được DSM-4 (Cẩm nang Phân loại và Chẩn đoán các bệnh tâm thần) của Hiệp hội Chuyên gia Tâm thần Hoa Kỳ chính thức đặt ra. Một số sách báo còn gọi nhóm bệnh này bằng cụm từ "Rối loạn phổ tự kỷ" (Autism Spectrum Disorders). Cả hai thuật ngữ này đều có ý nghĩa như nhau. [2]
Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh CDC Mỹ công bố kết quả nghiên cứu thống kế: ở Mỹ cứ 54 trẻ thì có một trẻ được xác định mắc chứng rối loạn phổ tự kỷ (ASD).[20]
[1] Định nghĩa từ bài viết của Tiến Sĩ Trần Trung Kiên - Chuyên viên nghiên cứu di truyền tại Phòng nghiên cứu, Viện nghiên cứu Tế bào gốc và Công nghệ gen Vinmec.
[2] Trích sách "Thấu hiểu & hỗ trợ trẻ tự kỷ" được viết bởi Tiến sĩ Phạm Toàn và Bác sĩ Lâm Hiểu Minh.
[3] Wikipedia: Hugh Blair of Borgue
[4] Wikipedia: Victor of Aveyron
[5] Posar A, Visconti P. Tribute to Grunya Efimovna Sukhareva, the woman who first described infantile autism. J Pediatr Neurosci. 2017;12(3):300-301. doi:10.4103/jpn.JPN_46_17
[6] The Autism History Project. J. Louise Despert, "Schizophrenia in Children, 1938
[7] Czech H. Hans asperger, national socialism, and "race hygiene" in nazi-era vienna. Mol Autism. 2018;9:29. doi:10.1186/s13229-018-0208-6
[8] Sasson NJ, Pinkham AE, Carpenter KL, et al. The benefit of directly comparing autism and schizophrenia for revealing mechanisms of social cognitive impairment. J Neurodev Disord. 2011;3(2):87-100. doi:10.1007/s11689-010-9068-x
[9] Eisenberg, L. The autistic child in adolescence. Am J Psychiatry. 1956 Feb;112(8):607-12. doi: 10.1176/ajp.112.8.607.
[10] Rimland, B. (1964). Infantile autism: The syndrome and its implications for a neural theory of behavior. Appleton-Century-Crofts.
[11] The Lovaas Center. Lovass ABA Treatment for Autism
[12] Deslauriers N. The empty fortress: Infantile autism and the birth of the self. Arch Gen Psychiatry. 1967;17(4):510–512. doi:10.1001/archpsyc.1967.01730280126018
[13] U.S. Department of Education. Twenty-five years of progress in educating children with disabilities through IDEA. Updated July 19, 2007.
[14] Folstein S, Rutter M. Infantile autism: a genetic study of 21 twin pairs. J Child Psychol Psychiatry. 1977;18(4):297-321. doi:10.1111/j.1469-7610.1977.tb00443.x
[15] Volkmar FR, Bregman J, Cohen DJ, et al. DSM-III and DSM-III-R diagnoses of autism. Am J Psychiatry. 1988 Nov;145(11):1404-8. doi: 10.1176/ajp.145.11.1404.
[16] U.S. Dept of Education. Individuals with Disabilities Education Act.
[17] Rao TS, Andrade C. The MMR vaccine and autism: Sensation, refutation, retraction, and fraud. Indian J Psychiatry. 2011;53(2):95-6. doi:10.4103/0019-5545.82529
[18] Congress.gov. Combating Autism Act of 2006.
[19] American Psychiatric Association.DSM-5. Autism Spectrum Disorder.
[20] Centers for Disease Control and Prevention. Data & statistics on autism spectrum disorder. Updated March 25, 2020.
"Lịch sử của chứng tự kỷ" được chuyển ngữ tiếng Việt và tổng hợp chính từ https://www.verywellhealth.com/autism-timeline-2633213 và có đối chiếu với các nguồn thông tin và tài liệu khác trên internet, bởi SGF Vietnam Korea.