Đề kiểm tra giữa học kì 1 môn Văn lớp 9 năm học 2024 - 2025 có đáp án chi tiết. Đề thi giữa kì 1 lớp 9 môn Văn mới thi của các trường THCS trên cả nước.
Đề kiểm tra giữa học kì 1 môn Văn lớp 9 năm học 2024 - 2025 có đáp án chi tiết. Đề thi giữa kì 1 lớp 9 môn Văn mới thi của các trường THCS trên cả nước.
Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi dành cho giáo viên và sách dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official
Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85
Tuyển tập Đề thi Ngữ Văn 9 năm học 2023-2024 học kì 1 và học kì 2 có đáp án được các Giáo viên hàng đầu biên soạn bám sát chương trình Ngữ văn lớp 9 và cấu trúc ra đề thi trắc nghiệm và tự luận mới.
Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.
Đề thi, giáo án lớp 9 sách mới các môn học
Trọn bộ 30 đề thi Ngữ Văn 9 Giữa kì 1 sách mới Kết nối tri thức, Chân trời sáng tạo, Cánh diều có đáp án và ma trận sẽ giúp bạn ôn tập và đạt điểm cao trong bài thi Ngữ Văn 9.
Xem thử Đề thi GK1 Văn 9 KNTT Xem thử Đề thi GK1 Văn 9 CTST Xem thử Đề thi GK1 Văn 9 CD
Chỉ từ 150k mua trọn bộ đề thi Ngữ Văn 9 Giữa kì 1 bản word có lời giải chi tiết, dễ dàng chỉnh sửa:
Xem thử Đề thi GK1 Văn 9 KNTT Xem thử Đề thi GK1 Văn 9 CTST Xem thử Đề thi GK1 Văn 9 CD
Phòng Giáo dục và Đào tạo .....
Đề thi Giữa kì 1 - Kết nối tri thức
CHUYỆN CÁI CHÙA HOANG Ở HUYỆN ĐÔNG TRIỀU
Ðời nhà Trần, tục tin thần quỹ, thần từ phật tự chẳng đâu là không có, như chùa Hòang Giang, chùa Ðồng Cổ, chùa An Sinh, chùa Yên Tử, chùa Phổ Minh, quán Ngọc Thanh dựng lên nhan nhản khắp nơi; những người cắt tóc làm tăng làm ni, nhiều hầu bằng nửa số dân thường. Nhất là vùng huyện Ðông Triều [1], sự sùng thượng lại càng quá lắm, chùa chiền dựng lên, làng lớn có đến hơn mười nơi, làng nhỏ cũng chừng năm, sáu, bao ngoài bằng rào lũy, tô trong bằng vàng son, phàm người đau ốm, chỉ tin theo ở sự hư vô; gặp các tuần tiết thì đàn tràng cúng vái rất là rộn rịp. Thần Phật xem chừng cũng ứng giáng, nên cầu gì được nấy, linh ứng lạ thường.
Bởi vậy, người dân càng kính tin, không dám ngạo mạn. Ðời vua Giản Ðịnh [2] nhà Trần, binh lửa luôn năm, nhiều nơi bị đốt; số chùa chiền còn lại, mười không được một, mà cái số còn lại ấy, cũng mưa bay gió chuyển, đổ ngã xiêu nghiêng, tiêu điều đứng rủ ở giữa đám cỏ hoang bụi rậm. Sau khi quân Ngô [3] lui, dân trở về phục nghiệp. Có viên quan là Văn Tư Lập đến trị huyện ấy, thấy những cảnh hoang tàn đổ nát, bèn róng rả dân đinh các xã, đánh tranh kên nứa mà sửa chửa lại ít nhiều. Ngồi ở huyện ấy một năm, thấy dân quanh huyện khổ về cái nạn trộm cắp, từ gà lợn ngỗng ngan đến cá trong ao, quả trong vườn, phàm cái gì ăn được đều bị mất hết, Tư Lập than rằng:
- Ta ở vào địa vị một viên ấp tể, không có cái minh để xét ra kẻ gian, cái cứng để chế phục kẻ ác, vì nhân nhu mà hỏng việc, chính là cái lỗi tự ta.
Song Tư Lập cho rằng những đám trộm cắp vặt ấy, cũng không đến nỗi là đáng lo ngại lắm, nên chỉ sức họ các thôn dân, đêm đêm họ vẫn asnh phòng cẩn mật. Trong khoảng một tuần, tuy canh phòng chẳng thấy gì cả, nhưng những việc trộm vặt cũng vẫn như trước. Lâu dần càng không thấy chúng kiêng sợ gì, đến nỗi lại vào bếp để khoắng hủ rượu của người ta, khi mọi người đổ đến vây bắt, thì kẻ gian đã biến đi đằng nào mất, chẳng thấy gì cả. Tư Lập cười mà nói:
- Té ra lâu nay vẫn ngờ oan cho lũ kẻ trộm, kỳ thực đó là lọai ma quỷ, hưng yêu ác quái đó mà thôi. Những sự quấy rối bấy nay, đề tự vật này cả.
Ðó rồi đi mời khắp các thầy phù thủy cao tay, xin bùa yểm trấn. Song càng bùa bèn trừ yểm, sự quấy quắc vẫn tệ hơn trước. Tư Lập cả sợ, họp người dân thôn lại bàn rằng:
- Các người khi trước vẫn thờ Phật rất là kính cẩn, lâu nay vì việc binh hỏa mà đèn hương lễ bái không chăm, cho nên yêu nghiệt hòanh hòanh mà Phật không cứu giúp. Nay sao chẳng đến chùa kêu cầu với Phật, tưởng cũng là một cách quyền nghi, may có thể giúp ích cho mình.
Mọi ngưòi bèn đi đốt hương lễ bái ở chùa chiền khấn rằng:
- Lũ chúng sinh này kính thờ Trời Phật, quy y đã lâu, hết lòng trông cậy ở Phật pháp. Nay ma quỷ nổi lên, quấy nhiễu dân chúng, họa hại cả đến lòai lục súc, vậy mà Phật ngồi nhìn im lặng, chẳng cũng từ bi qúa lắm ư? Cúi xin mở lượng xót thương, ra uy trừng phạt, khiến thần, người chẳng lẫn, dân vật đều yên, sinh kế chưa khôi phục được, tấc gỗ mãnh ngói khó lòng xoay xở vào đâu. Ðợi khi làm ăn giàu có sẽ lại xin sửa lại chùa chiền đền công đức ấy.
Ðêm hôm ấy, trộm cắp hoành hành vẫn dữ hơn trước. Tư Lập chẳng biết làm sao được, nghe Vương Tiên sinh ở huyện Kim Thành [4] là người giỏi bói dịch, bèn đến bói một quẻ xem sao. Vương Tiên sinh bói rồi nói rằng:
- Ông muốn trừ được nạn ấy, sáng ngày mai nên do phía tả cửa huyện đi về phương Nam, hễ thấy người nào vận mặc như thế, mang xách như vậy, quyết là người ấy có thể trừ hại được, nên cố thỉnh mời, dù từ chối cũng đừng nghe.
Hôm sau, Tư Lập cùng các phụ lão theo đúng lời của Vương Tiên sinh để trông ngóng xem, những kẻ đi người lại đầy đường, chẳng thấy ai giống như thế cả. Trời đã xế chiều, ai nấy chán nản sắp muốn về, chợt có một người từ trong núi đi ra, mình mặc áo vải, đeo cung cưỡi ngựa. Mọi người cùng chạy ra phục lạy ở phía trước mặt. Người ấy ngạc nhiên hỏi, mọi người cũng kể rõ bản ý của mình. Người ấy cười mà rằng:
- Các ông sao mà tin bói tóan đến thế!. Tôi từ nhỏ làm nghề săn bắn, mình không rời yên ngựa, tay không rời cung tên. Hôm qua nghe nói ở núi Yên Phụ [5] có nhiều giống nai béo, thỏ tốt nên nay định đến để săn, nào có biết lập đàn thầy pháp, bắn ma vô hình là công việc thế nào.
Tư Lập nghĩ bụng người này tất là một vị pháp đàn cao tay, vì không muốn nổi tiếng về thuật bùa bèn, sợ bị mang lụy vào thân, nên mới vào nhởn nhơ trong chốn núi khe, giấu mình ở thú chơi cung mã, bèn nhất định cố mời kỳ được. Người kia xem chừng không thể từ chối, phải gượng theo lời. Tư Lập mời người ấy về huyện để ở trong nhà quán xá, giường chiếu màn đệm rất sang trọng, săn sóc kính cẩn như một vị thần minh. Người ấy nghĩ riêng mình rằng:
- Họ tiếp đãi kính cẩn với ta như thế này, chỉ vì cho ta có tài trừ quỷ. Nhưng thực thì ta chẳng có tài gì về sự đó, thế mà đi hưởng sự cung cấp của người, sao cho đành tâm. Nếu không sớm liệu trốn đi thì có ngày phải xấu hổ.
Hôm ấy mới chừng nửa đêm, thừa lúc mọi người đã ngủ say, người ấy bèn rón rén bước ra khỏi huyện lị. Khi đến phía tây cái cầu ván, bấy giờ trời tối lờ mờ, trăng khuya chưa mọc, thấy có người hình thể to lớn, hớn hở từ dưới đồng đi lên, người ấy bèn lẫn vào chỗ khuất, ngồi rình để xem họ làm trò gì. Một lát, thấy họ thò tay khoắng xuớng một cái ao, rồi bất cứ vớ được cá lớn cá nhỏ, đều bỏ vào mồm nhai nuốt hết, lại nhìn nhau mà cười mà nói:
- Những con cá con ăn ngon lắm, nên ăn dè dặt mới thấy thú, há chẵng hơn những thức ăn nhạt nhẽo họ thường dâng cúng chúng mình ư? Ðáng tiếc là đến bây giờ, chúng mình mới được biết những vị ngon ấy.
- Chúng mình to đầu mà dại, bấy nay bị chúng nó lừa dối, ai lại đem cái oản, một vài lẻ gạo để lấp cái bụng ngàn cân mà đi giữ cửa cho chúng nó bao giờ. Nếu không có những buổi như buổi hôm nay mà cứ trường chay mãi như trước thì thật là một đời sống uổng.
- Tôi xưa nay vẫn ăn đồ mặn không phải ăn chay như các ông. Nhưng hiện giờ dân tình vẫn nghèo kiết, chúng nó chẳng có gì để cúng vái mình. Bụng đói miệng thèm, không biết mùi thịt là cái gì đẫ trãi một thời gian khá lâu lắm, chẳng khác gì chí đức Khổng Tử ở nước Tề ba tháng không được đụng đến miếng thịt. Song đêm nay trời rét nước lạnh, khó lòng ở lâu chỗ này được, chi bằng lên quách vườn mía mà bắt chước Hổ đầu tướng quân [6] ngày xưa.
Ðoạn rồi họ dắt nhau đi lên, vào vườn mía, ngồi nhổ trộm mà tước, mà hít. Người kia đang ngồi núp một chỗ, liền giương cung lấy cắp tên, thình lình bắn ra, tin luôn ngay được hai người. Bọn gian kêu ấm ớ mấy tiếng rồi ồ chạy cả, chừng được mấy chục bước, đều mờ khuất hết. Song lúc đó còn có thấy tiếng mắng nhau:
- Ðã bảo ngày giờ không tốt thì đừng nên đi. Không nghe lời ta bây giờ mới biết.
Người kia kêu réo ầm ĩ lên, dân làng quanh đấy giật mình tỉnh dậy, cùng đốt đèn thắp đuốc chia nhau mỗi người đi một ngả. Họ soi thấy dấu máu vấy trên mặt đất, bèn theo dấu đi về phía tây. chừng hơn nữa dặm đến một cái chùa hoang, vào thấy hai pho tượng Hộ pháp xiêu vẹo trong chùa, trên lưng mỗi tượng đều thấy một phát tên cắm vào sâu lắm. Mọi người đều lắc đầu lè lưỡi, cho là một sự lạ xưa nay chưa có bao giờ. Họ liền hẩy đổ hai pho tượng.Trong lúc ấy còn nghe có tiếng nói rằng:
- Vẫn tưởng kiếm cho no bụng, ai ngờ phải đến nát thân. Nhưng bày ra mưu này là tự lão Thuỷ thần kia. Hắn là chủ mưu mà được khỏi nạn còn chúng ta theo hắn mà phải chịu vạ, thật cũng đáng phàn nàn lắm.
Đó rồi họ sai người đến miếu Thủy thần, thấy pho thần tượng đắp bằng đất, bỗng biến nét mặt, mặt tái đi như chàm đỗ, mấy cái vảy cá vẫn còn dính lèm nhèm trên mép. Bèn lại phá hủy luôn cả pho tượng ấy.
Quan huyện Văn Tư Lập dốc hết hòm rương để trả ơn người kia chở nặng mà về. Từ đấy yêu tà tuyệt tịch không còn thấy tăm bóng đâu nữa.
(Nguyễn Dữ, Truyền kì mạn lục, NXB Hội Nhà văn, 2018)
[1] Đông Triều: nay là huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh.
[2] Vua Giản Định: tên là Ngỗi, dấy quân chống quân xâm lược Minh từ 1407, niên hiệu Hưng Khánh.
[3] Quân Ngô: chỉ quân xâm lược Minh.
[4] Huyện Kim Thành: thời Trần thuộc châu Đông Triều, nay thuộc địa phận tỉnh Hải Dương.
[5] Núi Yên Phụ: nguyên chú: “Núi ở huyện Giáp Sơn”, có lẽ nay là vùng Kinh Môn thuộc tỉnh Hải Dương.
[6] Hổ đầu tướng quân: đời vua Tấn An Đế, Cố Hải Chi làm chức Hổ đầu tướng quân, người đương thời gọi là Cố Hổ đầu. Mỗi lần ăn mía, Cố đều ăn từ ngọn xuống gốc, lại nói: “Ăn như thế thì mỗi lúc mới đi đến chỗ thú vị”.
* Nguyễn Dữ là một danh sĩ thời Lê sơ, thời nhà Mạc sống vào khoảng thế kỷ 16 và là tác giả sách Truyền kỳ mạn lục, một tác phẩm truyền kỳ nổi tiếng tại Việt Nam.
Trả lời câu hỏi từ 1 đến 5 (trình bày ngắn gọn)
Câu 1 (1,0 điểm) Liệt kê các sự việc chính trong văn bản Chuyện cái chùa hoang ở huyện Đông Triều (Nguyễn Dữ) và cho biết sự việc nào quan trọng nhất?
Câu 2 (1,0 điểm) Phân biệt lời người kể chuyện và lời nhân vật trong văn bản trên
Câu 3 (1,0 điểm) Phân tích đôi nét về một số nhân vật yêu ma, thần trong văn bản Chuyện cái chùa hoang ở huyện Đông Triều và nhận xét khái quát đặc điểm, vai trò của hệ thống nhân vật này đối với tác phẩm?
Câu 4 (1,0 điểm) Đánh giá ý nghĩa, bức thông điệp của tác phẩm Chuyện cái chùa hoang ở huyện Đông Triều (Nguyễn Dữ). (1.0đ)
Câu 1 (2,0 điểm) Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) phân tích một số sự việc/chi tiết tiểu biểu làm nổi bật phẩm chất đáng quý ở nhân vật Văn Tư Lập trong văn bản Chuyện cái chùa hoang ở huyện Đông Triều.
Câu 2 (4,0 điểm) Viết bài văn nghị luận xã hội về một vấn đề cần giải quyết: Là một học sinh, em hãy đề xuất những giải pháp phù hợp để giải quyết tình trạng ô nhiễm tiếng ồn tại các thành phố lớn ở Việt Nam hiện nay.
Phòng Giáo dục và Đào tạo .....
Đề thi Giữa kì 1 - Chân trời sáng tạo
Đọc đoạn thơ sau và thực hiện các yêu cầu nêu ở dưới:
Tôi gõ cửa ngôi nhà tranh nhỏ bé ven đồng chiêm
- Nhà mẹ hẹp nhưng còn mê chỗ ngủ
Mẹ chỉ phàn nàn chiếu chăn chả đủ
Rơm vàng bọc tôi như kén bọc tằm,
Tôi thao thức trong hương mật ong của ruộng
Trong hơi ấm hơn nhiều chăn đệm
Của những cọng rơm xơ xác gầy gò.
Hạt gạo nuôi hết thảy chúng ta no
Đâu dễ chia cho tất cả mọi người.
(In trong tập Cát trắng, NXB Quân đội nhân dân, 1973)
Câu 1 (0,5 điểm) Xác định thể thơ của bài thơ trên.
Câu 2 (0,5 điểm) Xác định nhân vật trữ tình trong bài thơ trên.
Câu 3 (1,0 điểm) Phân tích hiệu quả của biện pháp tu từ được sử dụng trong câu thơ sau: Rơm vàng bọc tôi như kén bọc tằm
Câu 4 (1,0 điểm) Nhận xét về tình cảm của nhân vật trữ tình trong bài thơ.
Câu 5 (1,0 điểm) Bài học sâu sắc nhất em nhận được qua bài thơ trên là gì?
Câu 1 (2,0 điểm) Viết đoạn văn ngắn nêu cảm nhận của em về khổ thơ cuối trong bài thơ “Hơi ấm ổ rơm” của Nguyễn Duy.
Câu 2 (4,0 điểm) Viết bài văn nghị luận xã hội về một vấn đề cần giải quyết: “Là một học sinh, em hãy đề xuất những giải pháp phù hợp để giảm thiểu rác thải nhựa trong trường học và trong các gia đình?”
Phòng Giáo dục và Đào tạo .....
Đọc văn bản sau và thực hiện yêu cầu
Thoại Khanh - Châu Tuấn là một truyện thơ Nôm khuyết danh nổi tiếng với nhân dân Nam Bọ. Chuyện kể về nàng Thoại Khanh là con gái của quan thừa tướng nước Tống đẹp người, đẹp nết. Mồ côi cha mẹ sớm, nàng gặp chàng thư sinh Châu Tuấn và kết duyên cùng chàng (Gặp gỡ). Gia biến và lưu lạc: Châu Tuấn đi thi đỗ trạng nguyên, do từ chối hôn sự mà bị đi đày 17 năm. Thoại Khanh bị bạn chồng dụ dỗ và đuổi đi. Hai me con dắt nhau đi tìm tìm Châu Tuấn, trải qua nhiều kiếp nạn. Đói khát, nàng cắt thịt mình cho mẹ chồng ăn, lấy mắt mình nộp cho dâm thần để hắn khỏi giết mẹ. Đoàn tụ: Thoại Khanh gặp lại Châu Tuấn, nàng được Phật cho mắt sáng trở lại. Châu Tuấn làm vua 2 nước, đầy đủ hạnh phúc, báo ân báo oán công bằng.
Dưới đây là trích đoạn “Thoại Khanh thay chồng nuôi mẹ”, em hãy đọc kĩ và trả lời câu hỏi:
Chồng đi ứng cử (1) kể đà bảy năm.
Bữa no bữa đói, thiết thân cơ hàn.
Làm thuê nuôi mẹ, phần nàng ăn rau
Tóc rối bù đầu, chẳng gỡ chẳng trâm..
Giả làm mềm chiếu, chi làm tấm thân.
Cho tròn đạo chồng, mất thảo mẹ cha.
Hai hàng nước mắt nhỏ sa ròng ròng...”
Đi thi chẳng đỗ, uổng công, về nhà.
Vàng ròng mười nén mua mà chức sang.
Quyền đặng thái thú cao quan(3)
Mua cho chú chàng thái thú tại gia.
Tương Tử xem thấy mặt hoa phải lòng.
Vàng ròng hai nén nói trong với nàng:
Thác bảy năm tràng còn chực làm chi?
Cửa nhà giàu có thiếu chi bạc vàng!
Về ta cấp dưỡng cho an phận nàng.
Chia đôi sự nghiệp làm hai cửa nhà”
“Và người bạn học cũng là đồng song(5)
Sao người lại dám ra lòng tà tây?(7)
Thật là súc vật chẳng hay đạo người.
Tôi thà đói lạnh, của người chẳng ham
Tôi thà dắt mẹ đi tìm bạn xưa”.
(Trích Kho tàng truyện Nôm khuyết danh, tập 2, Nhiều tác giả, NXB Văn học, 2000)
(1) ứng cử: ở đây có thể được hiểu là ứng thi, dự thi
(3) thái thú: chức quan tương đương tri huyện/ ở đây ý nói chức quan mua danh chứ không có thực tài.
4) Qua: ta, tôi/ bậu: nàng (xưng hô thân thiết ở Nam Bộ xưa)
(5) đồng song: cùng học với nhau 1 trường
Câu 1 (0,5 điểm) Cho biết phương thức biểu đạt chính của văn bản trên?
Câu 2 (0,5 điểm) Trong văn bản, Trương Tử hiện lên là con người như thế nào?
Câu 3 (1,0 điểm) Tác giả đã khắc hoạ vẻ đẹp của nàng Thoại Khanh bằng những cách nào?
Câu 4 (1,0 điểm) Thoại Khanh đã làm gì để bảo vệ hạnh phúc gia đình? Từ đó, em hãy nhận xét về cảm hứng nhân đạo của tác phẩm.
Câu 5 (1,0 điểm) Từ câu chuyện của nàng Thoại Khanh, câu chuyện Thuý Kiều bán mình chuộc cha và câu chuyện nàng Vũ Thị Thiết nuôi mẹ chồng khi chồng đi chinh chiến, em có suy nghĩ gì về vẻ đẹp của nhân vật nữ trong văn học trung đại Việt Nam?
Câu 1 (2,0 điểm) Từ nội dung văn bản ở phần đọc hiểu, kết hợp với những hiểu biết xã hội của bản thân, em hãy viết một đoạn văn khoảng 2/3 trang giấy thi nêu suy nghĩ của mình về ý nghĩa của lòng tự trọng trong cuộc sống.
Câu 2 (4,0 điểm) Em hãy phân tích văn bản truyện ngắn sau:
Tôi đi học dưới đồng bằng. Còn bố tôi, từ nơi núi đồi hiểm trở, ông luôn dõi theo tôi.
Bao giờ cũng vậy, ông mặc chiếc áo kẻ ô phẳng phiu nhất, xuống núi vào cuối mỗi tuần. Ông rẽ vào bưu điện để nhận những lá thư tôi gửi. Lặng lẽ, ông vụng về mở nó ra. Ông xem từng con chữ, lấy tay chạm vào nó, rồi ép vào khuôn mặt đầy râu của ông. Rồi lặng lẽ như lúc mở ra, ông xếp nó lại, nhét vào bao thư. Ông ngồi trầm ngâm một lúc, khẽ mỉm cười rồi đi về núi.
Về đến nhà, ông nói với mẹ tôi: “Bà ơi, con mình vừa gửi thư về”. Ông trao thư cho bà. Bà lại cẩn thận mở nó ra, khen: “Con mình viết chữ đẹp quá! Những chữ tròn, thật tròn, những cái móc thật bén. Chỉ tiếc rằng không biết nó viết gì. Sao ông không nhờ ai đó ở bưu điện đọc giùm?”. Ông nói:“Nó là con tôi, nó viết gì tôi đều biết cả”. Rồi ông lấy lại thư, xếp vào trong tủ cùng với những lá thư trước, những lá thư được bóc ra nhìn ngắm, chạm mặt rồi cất vào, không thiếu một lá, ngay cả những lá đầu tiên nét chữ còn non nớt[...]
Hôm nay là ngày đầu tiên tôi bước chân vào trường đại học. Một ngày khai trường đầu tiên không có bố. Bố tôi đã mất. Nhưng tôi biết bố sẽ đi cùng tôi trên những con đường mà tôi sẽ đi, suốt cả hành trình cuộc đời.
(Theo Bố tôi - Nguyễn Ngọc Thuần, NXB Hội nhà văn, 1992)
Chú thích: Nguyễn Ngọc Thuần (sinh năm 1972- quê: Bình Thuận) là nhà văn đương đại với nhiều tác phẩm viết cho thiếu nhi hay, đạt được nhiều giải thưởng văn chương trong và ngoài nước. Các tác phẩm của ông mang đến một thế giới trong trẻo, tươi mới, ấm áp, đầy chất thơ như: Giăng giăng tơ nhện, Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ, Một thiên nằm mộng, …
Xem thử Đề thi GK1 Văn 9 KNTT Xem thử Đề thi GK1 Văn 9 CTST Xem thử Đề thi GK1 Văn 9 CD
Lưu trữ: Đề thi Giữa kì 1 Ngữ Văn 9 (sách cũ)
Phòng Giáo dục và Đào tạo .....
Dưới đây là một phần trong lệnh truyền của vua Quang Trung với quân lính:
- Quân Thanh sang xâm lấn nước ta, hiện ở Thăng Long, các ngươi đã biết chưa? Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng, phương Nam, phương Bắc chia nhau mà cai trị. (…) Các ngươi đều là những kẻ có lương tri, lương năng, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực, để dựng nên công lớn.
(Trích Ngữ văn 9, tập một - NXB Giáo dục, 2012)
Câu 1 : Đoạn văn trên trích trong tác phẩm nào? Tác giả là ai? (1đ)
Câu 2 : Nhà vua nói “Đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng, phương Nam, phương Bắc chia nhau mà cai trị” nhằm khẳng định điều gì? Hãy chép hai câu trong một bài thơ đã học trong chương trình Ngữ văn THCS có nội dung tương tự và ghi rõ tên tác giả, tác phẩm. (2đ)
Câu 1 : (2 điểm) Dựa vào nội dung câu “Đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng, phương Nam, phương Bắc chia nhau mà cai trị” của phần I, em hãy trình bày suy nghĩ về hình ảnh người chiến sĩ ngày đêm bảo vệ biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc bằng một bài văn ngắn (khoảng nửa trang giấy).
Câu 2 : (2 điểm) Nhận xét về kết thúc tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ có ý kiến cho rằng đây là một kết thúc có hậu. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng đó là kết thúc không có hậu. Vì sao?
Câu 3 : (3 điểm)Chép lại và phân tích 4 câu thơ đầu trong đoạn trích Cảnh ngày xuân (trích Truyện Kiều của Nguyễn Du) gợi lên vẻ đẹp của mùa xuân như thế nào?
- Đoạn văn trong tác phẩm Hoàng Lê Nhất thống chí.
- Tác giả: nhóm Ngô Gia văn phái - Dòng họ Ngô Thì ở làng Tả Thanh Oai - Hà Nộị. Hai tác giả chính: Ngô Thì Chí, Ngô Thì Du.
- Nhà vua nói như vậy để khẳng định độc lập chủ quyền của dân tộc ta.
- Hai câu thơ có nội dung tương tự trong bài Nam quốc sơn hà (Lý Thường Kiệt):
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Rành rành đã định tại sách trời)
Câu 1 : Dựa vào nội dung câu “Đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng, phương Nam, phương Bắc chia nhau mà cai trị” của phần I, em hãy trình bày suy nghĩ về hình ảnh người chiến sĩ ngày đêm bảo vệ biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc bằng một bài văn ngắn (khoảng nửa trang giấy)
*Về nội dung: Học sinh trình bày suy nghĩ của mình, cơ bản đạt được các nội dung sau:
- Câu hỏi yêu cầu thí sinh trình bày suy nghĩ về hình ảnh người chiến sĩ ngày đêm bảo vệ biển đảo thiêng liêng Tổ quốc. Thí sinh có thể triển khai bài viết theo nhiều cách khác nhau. Sau đây là một số gợi ý để tham khảo:
+ Việt Nam là một quốc gia nằm ven biển. Lãnh thổ bao gồm đất liền và rất nhiều hải đảo. Bên cạnh những người chiến sĩ bảo vệ chủ quyền của đất nước trên đất liền, trên không, chúng ta không thể không nghĩ tới những người chiến sĩ ngày đêm bảo vệ biển đảo thiêng liêng của dân tộc.
+ Các anh là những người sống trong một khung cảnh có nhiều khó khăn gian khổ: sống giữa biển khơi, đầy nắng gió, thường xuyên gặp phải bão tố,…
+ Cuộc sống của các anh thiếu thốn phương tiện so với người dân ở đất liền: thiếu nước ngọt, thiếu sách báo,…
+ Xa gia đình, xa người thân nên nhiều khi phải trải qua những nỗi buồn da diết vì nhớ nhà,…
+ Tuy đầy gian khổ và khó khăn nhưng những điều này không làm mềm đi ý chí quyết tâm bảo vệ chủ quyền tổ quốc, bảo vệ cuộc sống bình yên của người dân, nhất là những ngư dân trên biển cả.
+ Đất nước được toàn vẹn, cuộc sống vẫn phát triển bình thường, hàng ngày các em được bình yên đến trường, bữa cơm mỗi ngày không thiếu những sản phẩm của biển cả,… nhờ có một phần không nhỏ công sức và sự hy sinh thầm lặng của các anh.
*Về hình thức: Đoạn văn có độ dài như yêu cầu, lập luận chặt chẽ, diễn đạt trong sáng, dễ hiểu.
- Về nội dung: Học sinh trình bày suy nghĩ của mình, cơ bản đạt được các nội dung sau:
+ Lí giải đó là một kết thúc có hậu thể hiện ước mơ của nhân dân, hoàn thiện nét đẹp của Vũ Nương…
+ Kết thúc không có hậu: Đó là bi kịch của hạnh phúc gia đình tan vỡ, cuối cùng Vũ Nương sống một mình ở thủy cung, không thể trở về nhân gian được nữa. Trương Sinh mãi mất vợ, sống trong ân hận, bé Đản mồ côi mẹ… Tính bi kịch tiềm ẩn trong cái lung linh kì ảo. Hạnh phúc đã tan vỡ thì không thể hàn gắn được nữa.
- Về hình thức: Đoạn văn có độ dài như yêu cầu, lập luận chặt chẽ, diễn đạt trong sáng, dễ hiểu.
- Chép lại chính xác 4 câu thơ. Mỗi câu đúng 0,25đ
- Hai câu đầu nói về thời gian vừa gợi không gian. Ngày xuân trôi qua tiết trời bước sang tháng ba. Lúc này những cánh én rộn ràng bay lượn như thoi đưa trên bầu trời trong sáng thông qua nghệ thuật so sánh, ẩn dụ. Hai câu tiếp theo là bức họa tuyệt đẹp trải rộng tới tận chân trời làm gam màu nền cho bức tranh xuân trên nền xanh non ấy điểm xuyết vài bông hoa lê trắng. Tất cả gợi lên vẻ đẹp mới mẻ tinh khôi đầy sức sống.
Phòng Giáo dục và Đào tạo .....
Chép đúng chính tả bốn câu thơ cuối bài thơ Khi con tu hú (Tố Hữu). Nêu nội dung của đoạn thơ này.
Câu 2 : (2 điểm) Giải thích lí do lựa chọn trật tự từ in đậm trong những câu sau:
a) Nó đến trường gặp thầy giáo, nhờ thầy giảng hộ bài toán.
b) Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín.
Câu 3 : (6 điểm) Thuyết minh về cây bút bi.
Phòng Giáo dục và Đào tạo .....
“Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ”
Câu 1 : Đoạn văn trên trích trong tác phẩm nào? Của ai? Được viết bằng chữ gì? (1đ)
Câu 2 : Đoạn văn trên có dùng điển tích gì, nêu ý nghĩa của việc dùng các điển tích đó?(1đ)
Câu 3 : Nhân vật bày tỏ nỗi lòng trong đoạn văn trên là ai? Điều muốn bày tỏ là gì? (1đ)
Câu 4 : Bằng đoạn văn khoảng 10-12 câu, hãy phát biểu cảm nghĩ về nhân vật chính trong tác phẩm có đoạn trích trên. Gạch chân câu chủ đề của đoạn văn em trình bày. (4đ)
Mà chân muốn đạp tan phòng hè ôi!
Khi con tu hú ngoài trời cứ kêu
Câu 1 : Đoạn thơ trên trích trong tác phẩm nào? Của ai? Viết trong hoàn cảnh nào? (1đ)
Câu 2 : Viết đoạn văn diễn dịch nêu cảm nhận của em về đoạn thơ trên? (Đoạn văn có sử dụng câu ghép chính phụ có quan hệ nguyên nhân-kết quả, xác định rõ câu ghép đó bằng cách gạch chân) (2đ)
Phòng Giáo dục và Đào tạo .....
Dưới đây là một phần trong lệnh truyền của vua Quang Trung với quân lính:
“Quân Thanh sang xâm lấn nước ta, hiện ở Thăng Long, các ngươi đã biết chưa? Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng, phương Nam, phương Bắc chia nhau mà cai trị.(…) Các ngươi đều là những kẻ có lương tri, lương năng, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực, để dựng nên công lớn.”
(Trích Ngữ văn 9, tập một – NXB Giáo dục, 2012)
Câu 1 : Đoạn văn trên trích trong tác phẩm nào? Tác giả là ai?
Câu 2 : Nhà vua nói “đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng, phương Nam, phương Bắc chia nhau mà cai trị” nhằm khẳng định điều gì? Hãy chép 2 câu trong bài thơ “Sông núi nước Nam” có nội dung tương tự.
Câu 3 : Từ đoạn trích trên, với những hiểu biết xã hội, em hãy trình bày suy nghĩ (khoảng nửa trang giấy thi) về hình ảnh những người chiến sĩ ngày đêm bảo vệ biển đảo thiêng liêng của dân tộc.
Câu 1 : Hãy chép chính xác những câu thơ tiếp theo miêu tả sắc đẹp của Thúy Kiều.
Câu 2 : Em hiểu như thế nào về những hình tượng nghệ thuật ước lệ “thu thủy”, “xuân sơn” ? Cách nói “Làn thu thủy nét xuân sơn” dùng nghệ thuật ẩn dụ hay hoán dụ? Giải thích rõ vì sao em chọn nghệ thuật ấy?
Câu 3 : Từ câu chủ đề sau: “Khác với Thúy Vân, Thúy Kiều có vẻ đẹp mặn mà cả tài lẫn sắc”.
Hãy viết nối tiếp khoảng 10 câu văn để hoàn thành một đoạn văn theo cách diễn dịch hoặc tổng – phân – hợp. Chỉ ra và phân tích cấu tạo một câu ghép đã sử dụng trong đoạn văn.
Xem thêm bộ Đề thi Ngữ Văn 9 năm học 2024 - 2025 chọn lọc khác: